Bruno Taut

Bruno Taut (1910)
Bruno Taut (1910)

Bruno Julius Florian Taut (4 tháng 5 năm 1880 – 24 tháng 12 năm 1938) là một kiến trúc sư, nhà quy hoạch đô thị và tác giả nổi tiếng người Đức. Ông hoạt động trong thời kỳ Cộng hòa Weimar và được biết đến không chỉ qua các thiết kế công trình mà còn bởi những tác phẩm lý thuyết về kiến trúc.

Cuộc đời và những năm đầu của sự nghiệp

Taut sinh năm 1880 tại Königsberg. Sau khi học xong trung học, ông theo học tại trường Baugewerkschule. Trong những năm tiếp theo, Taut làm việc tại các văn phòng kiến trúc khác nhau ở Hamburg và Wiesbaden.

Năm 1903, ông làm việc cho Bruno Möhring tại Berlin, nơi ông tiếp cận với phong cách Jugendstil và các phương pháp xây dựng mới kết hợp thép và gạch xây.

Từ năm 1904 đến 1908, Taut làm việc tại Stuttgart cho Theodor Fischer và theo học quy hoạch đô thị.

Năm 1906, ông nhận được hợp đồng đầu tiên thông qua Fischer, đó là dự án cải tạo nhà thờ làng ở Unterriexingen.

Năm 1908, ông trở lại Berlin để học lịch sử nghệ thuật và xây dựng tại Trường Đại học Kỹ thuật Hoàng gia Charlottenburg (nay là Đại học Kỹ thuật Berlin). Một năm sau, ông thành lập hãng kiến trúc Taut & Hoffmann cùng với Franz Hoffmann.

Các dự án lớn đầu tiên của Taut bắt đầu vào năm 1913. Ông trở thành người đi theo phong trào Thành phố Vườn, điều này thể hiện rõ qua thiết kế của ông cho khu dân cư Falkenberg.

Taut tiếp thu các lý tưởng và kỹ thuật mang tính vị lai của phong trào tiên phong, thể hiện trong mái vòm lăng kính của Nhà Pha Lê (Glass Dome) mà ông xây dựng cho hiệp hội công nghiệp thủy tinh Đức tại Triển lãm Werkbund năm 1914 ở Cologne.

Mục tiêu của ông là tạo nên một công trình hoàn toàn bằng thủy tinh thay vì chỉ dùng thủy tinh như vật liệu bề mặt hoặc trang trí. Ông tạo nên cầu thang kim loại lót kính, thác nước có ánh sáng ngầm, và các bức tường kính mosaic đầy màu sắc.

Các bản phác thảo của ông trong ấn phẩm “Kiến trúc Alpine” (1917) là tác phẩm của một nhà không tưởng không chút do dự, và ông được xếp vào nhóm kiến trúc hiện đại, đặc biệt là phái Biểu hiện. Phần lớn tác phẩm văn học của Taut bằng tiếng Đức vẫn chưa được dịch sang tiếng Anh.

Nội thất trong công trình Glass Dome
Nội thất trong công trình Glass Dome

Làm việc tại Đức

Năm 1910, sau khi đào tạo tại Berlin, làm việc cho văn phòng của Theodor Fischer ở Stuttgart và thành lập công ty riêng tại Berlin, kiến trúc sư kỳ cựu Hermann Muthesius đề nghị Taut đến Anh để tìm hiểu triết lý thành phố vườn. Muthesius cũng giới thiệu ông với một số thành viên của nhóm kiến trúc sư Deutscher Werkbund, bao gồm Walter Gropius. Taut có xu hướng xã hội chủ nghĩa, và trước Thế chiến I, điều này cản trở sự thăng tiến của ông.

Bruno Taut, tòa nhà "Red Front", Khu nhà Horseshoe, Britz, Berlin
Bruno Taut, tòa nhà “Red Front”, Khu nhà Horseshoe, Britz, Berlin

Hoạt động thực tiễn của Taut thay đổi trong thời kỳ Thế chiến I. Ông trở thành người theo chủ nghĩa hòa bình nên tránh được nghĩa vụ quân sự. Ông bắt đầu viết và phác thảo, không phải để trốn tránh hiện thực chiến tranh tàn khốc, mà để đưa ra một viễn cảnh không tưởng tích cực như một sự phản kháng. Taut đã thiết kế một thành phố vườn hình tròn khổng lồ với bán kính khoảng 7 km cho ba triệu cư dân. “Vương miện thành phố” (City Crown) nằm ở trung tâm – “hùng vĩ và bất khả xâm phạm”, đó sẽ là đỉnh cao của trung tâm văn hóa cộng đồng, một “tòa nhà pha lê” giống như chọc trời, không có chức năng cụ thể. “Tòa nhà này chỉ chứa một căn phòng đẹp đẽ có thể đến được bằng hai cầu thang bên phải và bên trái của nhà hát và trung tâm cộng đồng nhỏ. Làm sao tôi có thể mô tả thứ chỉ có thể được xây dựng mà không thể hình dung!”, Taut viết về Vương miện thành phố.

Mặt đứng công trình Hufeisensiedlung ở Berlin (1925–1933)
Mặt đứng các công trình tại Hufeisensiedlung, Berlin (1925–1933)

Từ năm 1912 đến 1915, Taut hoàn thành hai dự án nhà ở tại Magdeburg, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chủ nghĩa công năng nhân văn và giải pháp quy hoạch đô thị của triết lý thành phố vườn. Khu dân cư cải cách, được xây cho một quỹ nhà ở, bao gồm các ngôi nhà một tầng xây liền kề, là nơi đầu tiên Taut sử dụng màu sắc như một nguyên tắc thiết kế. Việc xây dựng tiếp theo do Carl Krayl thực hiện. Từ năm 1921 đến 1923, Taut giữ chức kiến trúc sư thành phố Magdeburg. Trong thời gian này, một số khu dân cư đã được xây dựng, nổi bật là khu Hermann Beims (1925–1928) với 2.100 căn hộ. Taut cũng thiết kế sảnh triển lãm Thành phố và Nông thôn năm 1921 với dàn vì kèo bê tông và giếng trời trung tâm.

Horseshoe Estate (Hufeisensiedlung), được xây dựng vào năm 1925, tại Britz, Berlin
Horseshoe Estate (Hufeisensiedlung), được xây dựng vào năm 1925, tại Britz, Berlin

Là một họa sĩ suốt đời, Taut nổi bật hơn các đồng nghiệp hiện đại châu Âu nhờ niềm đam mê màu sắc. Như ở Magdeburg, ông sử dụng các gam màu sống động, tương phản trong dự án lớn đầu tiên của mình – khu nhà ở Gartenstadt Falkenberg năm 1912 tại Berlin, về sau được gọi là “Khu hộp màu”. Nhà Pha Lê năm 1914, minh họa cho khả năng ứng dụng mới của thủy tinh, cũng rất sặc sỡ. Sự khác biệt giữa Taut và các kiến trúc sư hiện đại cùng thời chưa bao giờ rõ ràng như tại triển lãm nhà ở Weissenhofsiedlung năm 1927 ở Stuttgart. Trái với các công trình trắng tinh khôi của Ludwig Mies van der Rohe và Walter Gropius, ngôi nhà số 19 của Taut được sơn bằng các màu cơ bản. Le Corbusier từng thốt lên: “Lạy Chúa, Taut bị mù màu à!”

Worpsweder Käseglocke, được xây dựng vào năm 1926
Worpsweder Käseglocke, được xây dựng vào năm 1926

Trong Cách mạng tháng 11 năm 1918, Taut tham gia Arbeitsrat für Kunst, một hiệp hội nghệ sĩ cách mạng dựa trên mô hình hội đồng dân chủ. Nhóm này đề cao “vai trò chủ đạo của kiến trúc”, yêu cầu phá bỏ tất cả các tượng đài chiến tranh và xem nghệ thuật là phương tiện cách mạng hóa xã hội. Từ tháng 3 năm 1919, Taut là một trong ba thành viên ban điều hành cùng với Adolf Behne, César Klein và Walter Gropius. Nhóm giải thể năm 1921.

Nhà thi đấu Hermann Gieseler, nội thất, Magdeburg, Taut và John Göderitz
Nhà thi đấu Hermann Gieseler, nội thất, Magdeburg, Taut và John Göderitz

Năm 1924, Taut được bổ nhiệm làm kiến trúc sư trưởng của GEHAG, một hợp tác xã nhà ở công cộng tại Berlin, và là kiến trúc sư chính cho một số khu nhà ở quy mô lớn thành công ở Berlin (gọi là “Gross-Siedlungen”), tiêu biểu là Hufeisensiedlung năm 1925 (tên gọi bắt nguồn từ hình dạng móng ngựa quanh một cái ao) và dự án Onkel-Toms-Hütte năm 1926 ở Zehlendorf, được đặt theo tên một nhà hàng địa phương và nằm giữa một rừng cây rậm rạp. Cả hai công trình đều là ví dụ điển hình về việc sử dụng màu sắc trong kiến trúc.

Onkel-Toms-Hütte, Wilskistrasse, Berlin
Onkel-Toms-Hütte, Wilskistrasse, Berlin

Taut làm việc cho kiến trúc sư thành phố Berlin, Martin Wagner, trong một số Khu nhà ở hiện đại ở Berlin, nay đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Các thiết kế có đặc điểm gây tranh cãi như mái bằng hiện đại, không gian thoáng khí, tiếp cận ánh sáng và vườn tược, cùng các tiện ích như gas, điện, phòng tắm. Các chính trị gia bảo thủ chỉ trích những khu nhà này là quá xa xỉ cho “người dân bình thường”. Thị trưởng tiến bộ của Berlin, Gustav Böss, phản bác: “Chúng ta muốn nâng tầng lớp thấp lên một tầm cao hơn.”

Từ năm 1924 đến 1931, đội ngũ của Taut đã hoàn thành hơn 12.000 căn hộ. Để tưởng nhớ Taut, GEHAG đã đưa biểu tượng trừu tượng của Hufeisensiedlung vào logo của mình. Hợp tác xã nhà ở này sau đó bị Thượng viện Berlin bán vào năm 1998; pháp nhân kế thừa là Deutsche Wohnen.

Thiết kế nội thất của chỗ ở riêng "Tautes Heim" nằm ở Hufeisensiedlung, Berlin-Britz
Thiết kế nội thất của chỗ ở riêng “Tautes Heim” nằm ở Hufeisensiedlung, Berlin-Britz

Thời gian tại Nhật Bản

Do có tư tưởng chính trị tự do, Taut đã rời bỏ nước Đức khi Đức Quốc xã lên nắm quyền. Ông được hứa hẹn có công việc tại Liên Xô vào các năm 1932 và 1933 nhưng buộc phải trở lại Đức vào tháng 2 năm 1933, đối mặt với một môi trường chính trị thù địch.

Cuối năm đó, Taut trốn sang Thụy Sĩ. Sau đó, theo lời mời của kiến trúc sư Nhật Bản Isaburo Ueno, ông đã đến Nhật qua Pháp, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và Vladivostok, và đặt chân đến Tsuruga, Nhật Bản vào ngày 3 tháng 5 năm 1933. Taut định cư tại Takasaki, tỉnh Gunma, nơi ông viết ba cuốn sách quan trọng đánh giá văn hóa và kiến trúc Nhật Bản, so sánh sự giản dị lịch sử của kiến trúc Nhật với tính kỷ luật của chủ nghĩa hiện đại. Trong một thời gian, Taut làm giáo viên thiết kế công nghiệp, và các mẫu đèn và đồ nội thất của ông được bày bán tại cửa hàng Miratiss ở Tokyo.

Taut được biết đến với sự trân trọng đối với kiến trúc Nhật Bản theo xu hướng tối giản khắc khổ, thể hiện ở các công trình như Đền Ise và Biệt thự Hoàng gia Katsura ở Kyoto. Ông là người đầu tiên viết sâu rộng về các đặc điểm kiến trúc của biệt thự Katsura từ góc nhìn hiện đại. Khi so sánh với các ngôi đền trang trí công phu của tướng quân Tokugawa Ieyasu ở Nikko, ông từng phát biểu nổi tiếng rằng: “Nghệ thuật kiến trúc của Nhật không thể vươn cao hơn Katsura, cũng không thể rơi thấp hơn Nikko”. Những bài viết của Taut về mỹ học tối giản của Nhật Bản đã được đón nhận nồng nhiệt ở Nhật và sau đó ảnh hưởng đến công trình của Le Corbusier và Walter Gropius.

Công trình kiến trúc duy nhất còn tồn tại của Taut tại Nhật Bản là phần mở rộng của Biệt thự Hyuga ở Atami, tỉnh Shizuoka. Được xây dựng vào năm 1936 trên một khu đất nằm dưới biệt thự chính do doanh nhân Rihei Hyuga sở hữu, công trình gồm ba phòng có phong cách kết hợp giữa hiện đại và truyền thống Nhật Bản, cung cấp thêm không gian cho các sự kiện xã hội và tầm nhìn ra vịnh Sagami lân cận.

Tại Thổ Nhĩ Kỳ

Taut được mời làm Giáo sư Kiến trúc tại Học viện Mỹ thuật Quốc gia ở Istanbul (nay là Đại học Mỹ thuật Mimar Sinan), nên đã chuyển đến Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1936. Tại Ankara, ông hội ngộ với những người lưu vong người Đức khác trong thời chiến, bao gồm cả Martin Wagner và cộng sự Franz Hillinger của ông, người đến vào năm 1938. Tuy nhiên, một số công trình của Taut bị đánh giá tiêu cực và bị dán nhãn là “hình khối” (cubic). Trong một bức thư gửi bạn Nhật Bản, ông viết: “Họ đã cho tôi một cơ hội lớn vì cho tôi tự do trong nghề. Tôi sẽ làm một công trình không ‘hình khối’; họ gọi mọi thứ hiện đại là hình khối. Với công trình này, tôi dự định sử dụng một số họa tiết Thổ Nhĩ Kỳ.” Sau đó ông thiết kế ngôi nhà riêng của mình ở khu Ortaköy của Istanbul, kết hợp các truyền thống kiến trúc của thời lưu vong. Xưởng của ông gợi nhớ đến Tháp Einstein ở Potsdam, trong khi mặt tiền lại gợi hình ảnh một ngôi chùa Nhật Bản.

Khoa Ngôn ngữ, Lịch sử và Địa lý của Đại học Ankara, Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ
Khoa Ngôn ngữ, Lịch sử và Địa lý của Đại học Ankara, Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ

Sau khi rời Đức, Taut dần rời xa chủ nghĩa hiện đại. Một đồng nghiệp từng nhận xét: “Như tất cả những ai già đi, Taut mắc kẹt với các nguyên lý thời Phục Hưng và không thể tìm được lối đi tới cái mới! Tôi rất thất vọng… Thật tiếc cho một người từng tiên phong như vậy.”

Trước khi qua đời năm 1938, Taut đã viết ít nhất một cuốn sách nữa và thiết kế một số công trình giáo dục tại Ankara và Trabzon theo đơn đặt hàng của Bộ Giáo dục Thổ Nhĩ Kỳ. Những công trình quan trọng nhất trong số này bao gồm Khoa Ngôn ngữ, Lịch sử và Địa lý tại Đại học Ankara, Trường Trung học Atatürk Ankara và Trường Trung học Trabzon. Dự án cuối cùng của ông, Trường Cebeci, còn dang dở. Công trình cuối cùng mà ông thực hiện, chỉ một tháng trước khi mất, là lễ đài (catafalque) cho tang lễ cấp nhà nước của Mustafa Kemal Atatürk vào ngày 21 tháng 11 năm 1938 tại Ankara. Đó là một thiết kế đơn giản, gồm các cột gỗ lớn và một lá cờ phủ quan tài.

Taut qua đời vào ngày 24 tháng 12 năm 1938 và được chôn cất tại Nghĩa trang Liệt sĩ Edirnekapı ở Istanbul, trở thành người không theo đạo Hồi đầu tiên và duy nhất được an táng tại đây.

Tượng đài Taut tại Khu nhà gỗ của Bác Tom, Berlin-Zehlendorf
Tượng đài Taut tại Khu nhà gỗ của Bác Tom, Berlin-Zehlendorf

Leave a Comment